LÍ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ
. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ
1 Sự chuyển hoá tiền tệ
thành tư bản Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất
và trao đổi hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản
thân tiền tệ không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều
kiện nhất định , khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.
Tiền được coi là tiền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H (hàng -
tiền - hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi tiền lại chuyển
hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức: T-H-T (tiền - hàng - tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá rồi
hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến động nào vận động
theo công thức T-H-T đều chuyển hoá thành tư bản. Mục đích của lưu thông hàng
hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu nên hàng hoá trao đổi phải
có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn hai khi những
người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu
thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị , hơn nữa là giá trị
tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô
nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra nên công thức vận động
đầy đủ của tư bản là : T-H-T' trong đó T'= T + ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền
ứng ra C Mac gọi là giá trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng
dư , nên sự vận động tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là
không có giới hạn. Tiền ứng trước tức là tiền đưa vào lưu thông , khi trở về
tay người chủ của nó thì thêm một lượng nhất định. Vạy có phải do bản chất của
lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay
không ? các nhà kinh tế học tư sản đã cho rằng sự tăng thêm đó là do lưu thông
hàng hoá sinh ra.
Trong lưu thông hàng
hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình thái giá trị , còn tổng số
giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là không đổi. Theo quan
điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà tư bản nào chỉ
đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản
xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của nó thì khi mua các
yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy
cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm
thấy nguồn gốc sinh ra ∆T. Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền
mà người đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất
đi khi là người bán. như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua
hàng thấp hơn giá trị của nó. Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên
mua được rẻ bán được đắt thì như C Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích được
sự làm giầu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm
giầu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao
đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi mà chỉ có phần giá trị nằm
trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi. Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật
ngang giá thì không sinh ra giá trị thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật
không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra
giá trị mới. Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng
ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được. vậy
thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên
ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông" (C Mac: TB,NXB sự
thật, HN, 1987 Q1, tập 1, trang 216). Đó là mâu thuẫn chung của công thức tư bản.
2. Hàng hoá sức lao động Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát
sinh từ bản thân số tiền đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện
lưu thông để thực hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không
thay đổi. Sự chuyển hoá đó xẩy ra trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự
chuyển hoá đó không sảy ra ở giá trị trao đổi hàng hoá vì trong trao đổi người
ta trao đổi nhưng vật ngang giá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng hàng hoá. Do đó
hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc
tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản
đã tìm thấy trên thị trường. Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực
và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem
ra vận dụng trong quá trình tái sản xuất ra một giá sử dụng. Không phải bao giờ
sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong điều
kiện lịch sử nhất định. C Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá
khi có đủ hai điều kiện sau: -Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải
làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác.Vậy người
có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình. -Hai là người lao động
phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải
bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời
hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động
biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản. Cũng như những
hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử
dụng. Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu
tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của những người công nhân, những chi phí đào tạo
người công nhân. Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường
ở chỗ: nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa
chúng ta có sự khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường biểu
thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức lao động
lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm
tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố
vật chất nó còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền
thống nghề nghiệp mà hàng hoá thông thường đó không có. Giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức
là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là quá trình sản xuất
ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị hàng hoá
sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như
vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc
sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. 3 Bản chất giá
trị thặng dư: Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng
mà là giá trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản
xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá
trị trao đổi nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một
hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức
lao động mà tư bản đó bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng
dư. Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá trình
sả xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mac viết: với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình
tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với
tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị
thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái
tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá ;.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư
bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng: Một là, người công nhân lao động
dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất được
nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất. Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu
của nhà tư bản, chứ không phải của người công nhân. C Mac đã lấy ví dụ về việc
sản xuất của nước Anh làm đối tượng nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng
dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng phương pháp giả định khoa học thông qua giải
quyết chặt chẽ tiến hành nghiên cứu: không xét đến ngoại thương, giá cả thống
nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản đem tiêu dùng chuyển hết một lần
giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế sản xuất giản đơn. Từ giả
định trên mà C Mac đưa ra một loạt các giả thiết về nghiên cứu: Nhà tư bản dự
kiến kéo 10 kg sợi;giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị máy móc để kéo 5
kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla; giá
trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân
kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó ta có bảng sau: Tư bản ứng trước Giá
trị của sản phẩm mới Giá trị 10 kg bông 10 đôla Lao động cụ thể của công nhân bảo
tồn và chuyển giá trị 10 kg bông vào 10 kg sợi 10 đôla Hao mòn máy móc 2 đôla
Khấu hao tài sản cố định 2 đôla Tiền thuê sức lao động trong một ngày 4 đôla
Giá trị mới do 8 giờ lao động của người công nhân tạo ra. 8 đôla Tổng chi phí sản
xuất 16 đôla Tổng doanh thu 20 đôla Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi
bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16
đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi
là giá trị thặng dư. Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét
sau: +Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền
thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong
lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc
biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản
xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản. Hai là, phân tích giá trị sản
phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai phần : Giá trị những tư liệu
sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được bảo tồn và di chuyển
vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ. Giá trị do lao động trìu
tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá trị mới,
phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động
cộng thêm giá trị thặng dư. Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí
nghiệp tư bản được chia thành hai phần: Một phần gọi là thời gian lao động cần
thiết: trong thời gian này người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang
bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản giả cho mình(4
đôla). Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian
lao động thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao
động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla)
và bộ phận này thuộc về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt) Từ đó mà C Mac đã
đi đến khái niệm về giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra
bên ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản
chiếm đoạt. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá
trị vượt khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng
giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản
đã trả họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt
khỏi giới hạn tại điểm đó là sức lao động được trả ngang giá.
|