1-Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội....
Chủ nghĩa tư bản phát
triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản
độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.Trong
suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra đối
với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng góp tích cực đối với sản
xuất, đó là
- Sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản đã giải phóng loài người khỏi đêm trường trung cổ của xã hội phong kiến,
đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh
tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, hiện đại.
Dưới tác động của qui luật giá trị thặng dư và các kinh tế của sản xuất hàng
hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm
vật chất khổng lồ. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
năm 1848.
Phát triển lực lượng sản xuất: Quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với
trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật
cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu
trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai
đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của
kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả,
khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa
sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và
đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản
xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã
hội, sản xuất tập trung với qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác
lao động sâu sắc, mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị , các ngành, các lĩnh vực
ngày càng chặt chẽ...làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết lại
và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng
công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng và do đó
đã xây dựng được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp,
thói quen của người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.
- Chủ nghĩa tư bản lần
đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy
chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế chính trị trong các xã hội phong kiến,
nô lệ...vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận
quyền tự do thân thể của cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản
ngày nay
- với những thành tựu
và đóng góp của nó đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị
tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn
phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn
ra bằng phương pháp nào
- hòa bình hay bạo lực,
điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước
và bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng
cách mạng
2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh đóng góp tích
cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế về mặt lịch sử. Những hạn
chế này được Mác và Lênin đề cập ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản.
- Trước hết, về lịch sử
ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân tích chủ nghĩa tư bản ra đời gắn
liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là
quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với
những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn
bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực hiện bóc lột, nô dịch đối với những
nước lạc hậu. Về quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng,
đó là lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một bản tình ca, nó được sử
sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê, Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch
sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích
của Mác và Lênin thì chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệ
bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không
tránh khỏi.
- Các cuộc chiến tranh
thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã
để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết
hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới
bị kéo lùi lại hàng chục năm
Ngày nay, lại cũng
chính chủ nghĩa tư bản là thủ phạm châm ngòi nổ cho những xung đột vũ trang giữa
các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài thì tưởng chừng những xung đột đó chỉ đơn
thuần bắt nguồn từ những lý do sắc tộc, tôn giáo hay nhân quyền. Vì vậy, chi
phí cho quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện nay rất lớn, tính ra cứ 2 phút đồng hồ
lại có hai triệu đôla bị vứt đi vì chi phí cho quân sự.
-Chủ nghĩa tư bản sẽ phải
chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các
nước nghèo trên thế giới ( thế kỷ 18 chênh lệch là 2,5 lần, hiện nay là 250 lần
)
Trong những năm 80 của
thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái. Điều này cũng đã được ngân hàng
thế giới khẳng định: ở Châu Phi, Mỹ La tinh,...hàng trăm triệu người đã nhận thấy,
đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy
thoái: ở một vài nước Mỹ La tinh, GDP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với
10 năm trước đây. Ở nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm.một thế
giới mà trong đó từ 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ La tinh mức sống
không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên,
đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Các cường quốc tư bản độc
quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tài nguyên, bóc lột công nhân
các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con
đường xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay...kết quả là các nước nghèo không những
bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc
gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Ở Braxin người ta tính ra riêng số lãi mà
Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay bằng xây
nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn
3-Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.
Những thành tựu và hạn
chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản càng
phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng
cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng
trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù chủ
nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý
và phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào
làm giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn
không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu
thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Theo sự phân tích của Mác và Lênin, đến một chừng
mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào
đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập để
đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thúc sản xuất
mới
- phương thúc sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ
ra đời và phủ định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, phải nhận thức
rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không tự tiêu vong và phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực hiện
thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo
cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân